Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp

Không chỉ sản xuất và xuất khẩu thành công gạo phát thải thấp, ngành nông nghiệp đang tiến thêm một bước khi nhân rộng mô hình này sang các loại cây trồng khác.

Sản phẩm “Gạo xanh, phát thải thấp” xuất khẩu đi Nhật vào ngày 5.6 vừa qua là thành quả từ các mô hình thí điểm “Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” của Thủ tướng.

Từ gạo đến cà phê, chuối, mía, sắn… đều xanh

Hiện nay, các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp đang tiếp tục mở rộng đề án theo lộ trình.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ), một trong những người tích cực nhất tham gia đề án 1 triệu ha khẳng định, việc thí điểm đã chứng minh hiệu quả rõ ràng. Cơ hội thị trường cũng rất lớn, đặc biệt là các thị trường cao cấp như Nhật Bản, EU, Mỹ, Úc…

Không dừng lại ở cây lúa hạt gạo, Bộ NN-MT đang lên kế hoạch “xanh hóa” nền nông nghiệp với “Đề án sản xuất, trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 – 2030”. Theo báo cáo kiểm kê năm 2020, tổng phát thải của VN đạt khoảng 528,4 triệu tấn CO₂ tương đương, trong đó lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 19,8% và trồng trọt là lĩnh vực gây phát thải cao nhất – chiếm đến trên 70%. Vì thế, để thực hiện mục tiêu quốc gia, đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 thì việc giảm phát thải từ trồng trọt là điều vô cùng quan trọng.

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 1.

Bộ NN-MT đang xây dựng đề án mở rộng sản xuất sang nhiều loại cây trồng khác

ẢNH: CÔNG HÂN

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 2.

Bộ NN-MT đang xây dựng đề án mở rộng sản xuất sang nhiều loại cây trồng khác

ẢNH: CÔNG HÂN

TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường nông nghiệp, cho rằng lộ trình giảm phát thải trong nông nghiệp chỉ thực hiện hiệu quả khi nắm rõ phát thải bao nhiêu và từ đâu ra. “Trong nông nghiệp, phát thải lớn nhất từ trồng trọt đặc biệt là khí metan (CH4) từ canh tác lúa nước. Khi tưới nước ngập liên tục, môi trường yếm khí khiến hữu cơ phân hủy mạnh, phát sinh khí CH4. Ngược lại, nếu áp dụng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ, lượng phát thải có thể giảm đáng kể”, TS Mai Văn Trịnh giải thích.

Vì thế, đề án đặt mục tiêu giảm ít nhất 10% phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực trồng trọt đến năm 2035. Để thực hiện việc này, ngành nông nghiệp sẽ triển khai ít nhất 15 mô hình sản xuất giảm phát thải tại các vùng sinh thái có khả năng nhân rộng. Thí điểm tối thiểu 5 mô hình canh tác có khả năng phát triển tín chỉ carbon đạt yêu cầu của các tổ chức quốc tế. Đồng thời, xây dựng và ban hành ít nhất 5 gói kỹ thuật sản xuất giảm phát thải áp dụng cho 5 cây trồng trồng phổ biến trên cả nước là lúa, sắn, cà phê, chuối và mía.

Đối với cây lúa, TS Trịnh đề xuất 4 nhóm giải pháp gồm: Thứ nhất, chuyển đổi sang cây trồng cạn ở vùng kém hiệu quả. Thứ 2, áp dụng mô hình lúa – tôm. Thứ 3, sử dụng kỹ thuật tưới ngập – khô xen kẽ. Thứ 4, và cũng giải pháp đặc biệt quan trọng là tận dụng phụ phẩm rơm rạ sau thu hoạch. Thay vì đốt bỏ, rơm rạ có thể luân canh trồng nấm, sản xuất phân compost hoặc than sinh học bằng công nghệ nhiệt phân yếm khí. Đây là những mô hình không chỉ giảm phát thải mà còn tăng thu nhập cho nông dân.

Biến phụ phẩm thành tiền

Ngoài việc phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất, xanh hóa nền nông nghiệp cũng mang lại lợi ích kinh tế rất lớn.

Nghiên cứu của TS Trịnh Quang Khương, Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL, mới công bố gần đây cho biết: Sau các vụ thu hoạch, ngoài nguồn thu chính là lúa thì rơm cũng trở thành hàng hóa và ngày càng phổ biến. Vụ đông xuân năm 2021 ở tỉnh Đồng Tháp, An Giang giá bán rơm khoảng từ 55.000 – 75.000 đồng mỗi công ruộng, tương đương 400 đồng/kg. Rơm được thu hoạch bằng máy, cuộn thành sản phẩm giá lên tới 1.250 đồng/kg, tương đương 15.000 đồng/cuộn tại ruộng. Còn vận chuyển đến các cơ sở chăn nuôi, làm nấm, trồng vườn… giá có thể lên tới khoảng 25.000 đồng/cuộn, tương đương 2.083 đồng/kg. Người nông dân trồng lúa, ngoài thu lúa thì sau khi gặt xong còn có thể thu thêm bình quân 550.000 đồng/ha.

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 3.

Nhiều năm gần đây, rơm được tận dụng phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, nhưng thực tế tỷ lệ tái sử dụng vẫn còn thấp

ẢNH: CÔNG HÂN

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 4.

Tỷ lệ tận thu rơm phục vụ phát triển kinh tế tuần hoàn mới đạt trên 50%

ẢNH: CÔNG HÂN

“Mỗi năm phần sinh khối từ các cây trồng chính như lúa, bắp, mía, rau các loại có thể cung cấp tương đương với khoảng 43,4 triệu tấn hữu cơ, 1,86 triệu tấn đạm u rê, 1,68 triệu tấn supe lân đơn và 2,23 triệu tấn kali sulfat… Đây được coi là con số khổng lồ để bù đắp lại dinh dưỡng trong đất và sử dụng cho cây trồng trong canh tác nông nghiệp để thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay”, TS Trịnh Quang Khương cho biết.

Theo thống kê chính thức của các bộ ngành, phế phụ phẩm trong trồng trọt có khối lượng lớn nhất trong tổng lượng phế phụ phẩm ngành nông nghiệp. Cụ thể, phụ phẩm từ rơm lúa khoảng 43 triệu tấn, thân cây bắp 10 triệu tấn, rau quả 3,6 triệu tấn, thân cây mì 3,1 triệu tấn, hạt điều 3,1 triệu tấn và các loại khác 6,1 triệu tấn… Bên cạnh đó, phụ phẩm từ quá trình chế biến nông sản như vỏ trấu 8,6 triệu tấn; bã mía 3,5 triệu tấn; lõi bắp 1,4 triệu tấn; vỏ củ mì 1,3 triệu tấn và các loại khác là 2 triệu tấn. Tuy nhiên tỷ lệ tái sử dụng vẫn còn rất thấp, ví dụ tỷ lệ sử dụng rơm cho tất cả các mục đích chỉ đạt 56,3%. Còn lại là bỏ lãng phí.

Ở nhiều nơi, sau khi thu hoạch lúa xong nông dân có thói quen đốt rơm rạ ngay tại ruộng vừa gây ô nhiễm không khí, cản trở giao thông, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Trong khi, với nền kinh tế nông nghiệp tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh, nguồn phụ phẩm này được xem là nguồn tài nguyên tái tạo, là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp.

“Mỗi tấn rơm cũng như các phụ phẩm trong ngành nông nghiệp nói chung được xử lý hợp lý là một bước tiến giảm phát thải, do vậy cần có chính sách hỗ trợ để nông dân có lựa chọn tốt hơn thay vì lựa chọn đốt bỏ”, TS Trịnh khuyến cáo.

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 5.

Vỏ trấu cũng được tận dụng làm viên nén củi, mang lại giá trị tăng thêm trong quá trình chế biến gạo

ẢNH: CHÍ NHÂN

Từ 'gạo xanh' đến nông sản phát thải thấp- Ảnh 6.

Sau “gạo phát thải thấp”, VN sẽ cho ra đời “chuối xanh”

ẢNH: CHÍ NHÂN

TS Đỗ Thị Hương, Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), phân tích: Thị trường than sinh học trên thế giới có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, từ 156 triệu USD năm 2021 đã tăng lên khoảng 3,3 tỉ USD năm 2025. Các quốc gia tham gia thị trường carbon thế giới cũng đánh giá rất cao tín chỉ carbon từ than sinh học. Một số giao dịch tín chỉ carbon than sinh học đạt mức giá cao tới 200 USD cho mỗi tín chỉ.

Thế nhưng tại VN hiện nay, các công ty nhỏ lẻ thường coi than sinh học như một sản phẩm phụ, chưa khai thác đúng giá trị thực. Giá bán từ 2 – 12 triệu đồng/tấn, tùy thuộc vào nguyên liệu và công nghệ ứng dụng. Tổng giá trị thị trường than sinh học trong nước chỉ hơn 1.200 tỉ đồng/năm nhưng có tiềm năng tăng trưởng rất lớn thông qua canh tác hữu cơ và tài chính carbon.

“Trong đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải, Bộ cần ban hành các quy định rõ ràng, xây dựng hệ thống MRV (đo lường – báo cáo – thẩm định) và cơ chế tín chỉ carbon để tích hợp than sinh học vào hệ thống canh tác phát thải thấp, giảm tình trạng đốt bỏ phụ phẩm trồng trọt ngoài đồng”, TS Hương đề xuất.

Giấy thông hành mới

GS-TS Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh doanh – ĐH Kinh tế TP.HCM, nhận xét: Đề án là một chiến lược đa mục tiêu, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại mới. Đây là một định hướng đúng đắn, cần được khuyến khích phát triển. Trong đó, 2 yếu tố trọng tâm là nâng tầm nông sản VN thích ứng với xu hướng thị trường mới là sản phẩm an toàn, phát thải thấp. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng và gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu. Quá trình sản xuất giảm phát thải sẽ góp phần giúp VN tạo ra sản phẩm vô hình là tín chỉ carbon, từ đó tham gia hiệu quả vào thị trường thế giới.

Ông Đặng Bùi Khuê, Giám đốc phát triển bền vững của TUV NORD (đơn vị kiểm định và chứng nhận chất lượng toàn cầu), cũng cho rằng các thị trường nông sản lớn đang có xu hướng siết chặt các yêu cầu liên quan đến phát thải carbon, chứng nhận bền vững và truy xuất nguồn gốc. Việc đi trước đón đầu xu hướng này thông qua đề án là bước đi chiến lược để duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đề án đáp ứng trực tiếp cam kết quốc tế mạnh mẽ của VN về việc đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Xu hướng này tạo ra một môi trường chính sách thuận lợi, thúc đẩy toàn bộ hệ thống nông nghiệp chuyển đổi theo hướng phát thải thấp.

Theo ông, nông dân và doanh nghiệp có thể không chỉ bán sản phẩm nông nghiệp hữu hình truyền thống như hạt gạo hay cà phê… mà còn bán được cả “sản phẩm vô hình” là kết quả của quá trình canh tác bền vững – đó chính là tín chỉ carbon. Dòng doanh thu mới này giúp bù đắp chi phí chuyển đổi, tăng lợi nhuận và giảm rủi ro tài chính. Điều quan trọng thứ 2, các sản phẩm được chứng nhận giảm phát thải và sản xuất theo quy trình tuần hoàn đáp ứng được những yêu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường cao cấp như EU, Nhật Bản, Mỹ. Đây không còn là lợi thế, mà dần trở thành “giấy thông hành” bắt buộc để tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này giúp nông sản VN thoát khỏi cạnh tranh về giá và chuyển sang cạnh tranh về chất lượng và giá trị bền vững. “Việc có thể bán tín chỉ carbon tạo ra động lực tài chính mạnh mẽ để nhân rộng các mô hình này”, ông Khuê nhấn mạnh.

TS Nguyễn Hữu Hoàng, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp (Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia TP.HCM), cho biết nhóm nghiên cứu tại ĐH Quốc gia TP.HCM đang tập trung nghiên cứu sự tương tác giữa cây trồng và các loại vi sinh vật nhằm hướng tới các giải pháp canh tác bền vững. Nhóm đã chuyển giao thành công một số giải pháp, sản phẩm nghiên cứu cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. “Nguồn thu từ tín chỉ carbon chắc chắn sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy quy trình sản xuất nông nghiệp phát thải thấp”, TS Hoàng nhận xét.

Mở rộng không gian cho toàn ngành trồng trọt

Chuyển đổi mô hình trồng trọt theo hướng phát thải thấp không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là động lực chiến lược để nâng cao giá trị gia tăng và uy tín nông sản Việt trên thị trường quốc tế. Điều quan trọng của đề án là phải lựa chọn được những giải pháp phù hợp, có tính khả thi cao và có thể nhân rộng nhanh chóng tại cả cấp quốc gia cũng như nông hộ. Bên cạnh đó, việc thiết lập hệ thống chính sách đồng bộ để khuyến khích doanh nghiệp và người dân tham gia sản xuất xanh. Đề án là bước đi cụ thể nhằm triển khai các cam kết của VN với cộng đồng quốc tế trong việc đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Do đó, không nên bó hẹp trong một số cây trồng cụ thể mà cần mở rộng không gian cho toàn bộ ngành trồng trọt, khuyến khích địa phương và doanh nghiệp chủ động tham gia. Đơn vị chủ trì sớm hoàn thiện đề án trong tháng 8.2025 để trình Bộ phê duyệt.

Ông Hoàng Trung (Thứ trưởng Bộ NN-MT)

Các quốc gia khác đang làm gì?

Nhật Bản: Triển khai chiến lược thực phẩm xanh trong nông nghiệp (Green Food System Strategy) với mục tiêu giảm 50% lượng khí nhà kính từ ngành nông nghiệp vào năm 2030 và đạt trung hòa carbon vào năm 2050. Các giải pháp chính gồm: Thay thế một phần phân bón hóa học bằng phân hữu cơ sinh học và các loại phân hữu cơ khác. Cơ giới hóa thông minh, sử dụng thiết bị bay không người lái, cảm biến trong canh tác. Sử dụng giống lúa giảm phát thải, canh tác hữu cơ mở rộng. Hỗ trợ tài chính và tín dụng xanh cho nông dân chuyển đổi.

Thái Lan: Đưa ra sáng kiến canh tác lúa giảm phát thải bằng việc giảm chu kỳ ngập nước, áp dụng kỹ thuật tưới khô ướt xen kẽ. Sử dụng giống cải tiến, kiểm soát phân bón theo cảm biến. Thiết lập dự án tín chỉ carbon cho cộng đồng nông dân. Đến năm 2023, một số hợp tác xã nông dân Thái Lan đã bán được tín chỉ carbon trên thị trường tự nguyện với giá từ 5 – 7 USD/tấn CO2-tđ.

Brazil: Triển khai Chương trình ABC+ (Agriculture for Low Emission) với mục tiêu đến năm 2030 giảm hơn 1 tỉ tấn CO2-tđ thông qua các hoạt động: Luân canh giữa ngô – đậu tương – cỏ – gia súc để duy trì độ che phủ đất. Tăng sử dụng phân hữu cơ, cải tạo đất bằng vôi và vi sinh vật.

(Theo Bộ NN-MT)

📌 Bài viết này được đóng góp bởi người dùng và bản quyền thuộc về người dùng đã xây dựng bài viết. Bản quyền thuộc về tác giả gốc và chỉ dùng cho mục đích học tập và giao tiếp. Nếu có bất kỳ vi phạm nào, vui lòng liên hệ với chúng tôi để xóa nó.